Từ 7 hạt cà phê thiêng, Ấn Độ đã hình thành nên vùng nguyên
liệu “cà phê bóng râm” đặc biệt, hướng tới việc tạo nên hệ sinh
thái bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi sinh.
Sau khi được phát tích trong những thung lũng Abyssinia (nay là
Ethiopia) vào thế kỷ thứ 9, cà phê đã được suy tôn là “món quà
của Thượng đế”. Đến thế kỷ 14 – 15, người Hồi giáo Sufi xác tín
cà phê mang năng lượng tỉnh thức và có sức mạnh giúp giáo dân
nảy sinh những ý tưởng mới. Họ gọi năng lượng đặc biệt này là
“Marqaha” và thưởng thức cà phê trong nghi lễ Dhikr thường
diễn ra vào nửa đêm.
Cà phê nhanh chóng lan rộng khắp thế giới Hồi giáo, bao gồm
thánh địa Mecca, thánh địa Medina và các thành phố lớn như
Cairo, Aleppo, Damascus, Constantinople. Năm 1475, quán cà
phê đầu tiên được mở tại Constantinople (nay là Istanbul). Không
lâu sau, quán cà phê xuất hiện khắp đế chế Ottoman, trở thành
diễn đàn thảo luận trí tuệ và được gọi là “mektab-i-irfan”, hàm
nghĩa “trường học tri thức”. Giai đoạn này, cà phê vừa là thức
uống thần thánh mang ý nghĩa tôn giáo, vừa có sự ảnh hưởng sâu
rộng vào đời sống thế tục. Trong khi cà phê trở thành lĩnh vực
hoạt động kinh tế mới thì hàng quán cà phê đóng vai trò quan
trọng trong tiến trình mở ra thể chế xã hội dân sự mới. Đế chế Hồi
giáo Ottoman đã cố gắng kiểm soát, ngăn chặn hạt giống cà phê
rời khỏi lãnh thổ để giữ vị thế độc quyền thụ hưởng giá trị thương
mại của cà phê.
Thế kỷ 17, một giáo sĩ Hồi giáo Sufi có tên Baba Budan sống ở
Ấn Độ thực hiện cuộc hành hương đến thánh địa Mecca. Trên
hành trình đón nhận phước lành, Baba Budan được các tín đồ
Hồi giáo Sufi khác chia sẻ thức uống cà phê, và ông vô cùng kinh
ngạc về năng lượng tỉnh thức kỳ diệu của thức uống này. Baba
Budan vốn là một học giả thông thái, ông ngay lập tức tìm hiểu
sâu hơn về quá trình sinh trưởng, phát triển và cách thức sử dụng
cà phê. Ông nhận ra rằng những ngọn đồi Chandragiri (thuộc dãy
Western Ghats) ở Ấn Độ là vùng đất thích hợp để trồng cây cà
phê. Baba Budan lên kế hoạch giấu hạt cà phê giống đưa về Ấn
Độ, mang phước lành từ thánh địa về với quê nhà.
Baba Budan chọn đúng 7 hạt cà phê. Số 7 là con số thiêng liêng
trong đức tin của người Hồi Giáo. Trong Kinh Qur’an, số 7 có
giá trị biểu tượng to lớn, liên kết trực tiếp với sức mạnh của thần
thánh như 7 tầng trời, 7 thời kỳ sáng tạo, 7 vòng đi bộ quanh
Kaaba (địa điểm linh thiêng nhất trong đạo Hồi)… Mặt khác,
với Ấn Độ giáo, số 7 tượng trưng cho trái đất và 7 nguồn năng
lượng sẽ thức tỉnh trong quá trình thực hành tâm linh của con
người. Nhờ những ý nghĩa thiêng liêng đó, 7 hạt cà phê được chấp
thuận gieo trồng trên những sườn đồi Chandragiri, là gốc gác đầu
tiên của vùng nguyên liệu cà phê Ấn Độ. Ghi ơn vị giáo sĩ, dãy
Chandragiri – nơi 7 hạt cà phê nảy mầm đã được đặt tên là “Baba
Budangiri” (Ngọn đồi Baba Budan). Ông cũng nhận được sự tôn
kính của người Ấn Độ, được phong thánh và có đền thờ ngay trên
đồi Baba Budan.
Đến thế kỷ 19, Ấn Độ là quốc gia sản xuất cà phê lớn thứ 6 thế
giới. Dãy Western Ghats – di sản Thế giới được UNESCO công
nhận – chính là vùng nguyên liệu cà phê đặc biệt nhất hiện nay.
Dưới những tán lá rừng nguyên sinh phủ dài bất tận, cây cà phê
phát triển cạnh quần thể thực vật và sinh vật đa dạng bậc nhất thế
giới, hỗ trợ bảo tồn đa dạng sinh học, đồng thời góp phần giảm
thiểu biến đổi khí hậu.
Bóng râm hạn chế hiện tượng ức chế quang hợp (photoinhibition),
vì thế, cây cà phê trồng trong bóng râm có hiệu suất quang hợp
cao hơn so với cà phê phát triển dưới ánh nắng trực xạ. Ước tính,
một hecta cà phê trồng dưới bóng râm có thể hấp thụ và tích trữ
70 – 100 tấn carbon, tương đương một khu rừng. Điều này giúp
giảm nồng độ carbon trong khí quyển, góp phần giảm thiểu hiện
tượng hiệu ứng nhà kính đang tác động trực tiếp đến biến đổi khí
hậu trái đất. Bên cạnh đó, hầu hết các đồn điền cà phê Ấn Độ nằm
ở những vùng có lượng mưa từ trung bình đến lớn, lớp lá mục
từ cây cà phê đóng vai trò làm chậm dòng chảy và tăng độ thấm
nước mưa vào lòng đất, ngăn chặn xói mòn rửa trôi chất dinh
dưỡng trong đất.
Cà phê được trồng trong bóng râm là nơi ẩn náu của các sinh vật,
tạo thành liên minh cộng sinh bảo vệ đa dạng sinh học. Các nhà
khoa học thuộc Hiệp hội bảo tồn động vật hoang dã (WCS) đã
khảo sát sự đa dạng của các loài trong vùng nguyên liệu cà phê
ở Western Ghats. Nghiên cứu này cho thấy cà phê trồng trong
bóng râm mang lại lợi ích đa dạng sinh học đáng kể và hỗ trợ
môi trường bảo tồn quần thể các loài thực vật, động vật đặc hữu,
quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng. Các nhà khoa học đã tìm thấy
khoảng 350 đến 400 loài sống trong các đồn điền cà phê, trong đó
có 79 loài sống phụ thuộc, bao gồm 3 loài chim nằm trong danh sách
Đỏ: vẹt đuôi dài Alexandrine, bulbul đầu xám và bồ câu gỗ Nilgiri.
Các loài cây rừng và gia vị mọc hoang dã như tiêu piper argyrophyllum
miq, quế cinnamomum malabatrum, nghệ curcuma neilgherrensis
wight, gừng zingiber capitatum roxb…. sống phổ biến trong các đồn
điền cà phê. Nông dân Ấn Độ cũng trồng thảo mộc và cây lấy quả
như cam, quýt, quế, bạch đậu khấu, nhục đậu khấu, đinh hương…
xen kẽ trong trang trại cà phê. Hệ thống nông lâm kết hợp này phối
kết cà phê cùng với các cây bản địa và cây du nhập. Do đó, tầng sinh
quyển cà phê ảnh hưởng rất lớn đến môi trường xung quanh. Rễ cà
phê có sự tương tác với rễ của nhiều loài cây khác nhau, dịch tiết từ
bộ rễ tạo ra môi trường vi sinh vật rhizospheric, thiết lập mối quan hệ
cộng sinh có lợi cho rừng. Trong khi hợp chất được tiết ra từ rễ cà phê
thúc đẩy sự hình thành và tăng sinh của quần thể vi sinh vật cao hơn
so với phần còn lại của đất thì vi sinh vật rhizospheric cũng tham gia
vào việc sản xuất hormone tăng trưởng thực vật bằng cách làm tăng
các chất dinh dưỡng trong đất mà cây có thể hấp thụ được. Chúng
còn bảo vệ cây khỏi một số mầm bệnh, giảm thiểu việc sự dụng phân
bón hoặc tác động của thuốc hóa học vào môi trường sống của đồn
điền cà phê.
Dãy Western Ghats còn là điểm nóng về đa dạng sinh học trên thế
giới. Theo một cách nào đó, hệ thống đồn điền cà phê bóng râm
tương tác chặt chẽ với môi trường sinh học (biotic) và phi sinh
học (abiotic) có chức năng như một vùng sinh thái và hoạt động
như một khu bảo tồn đa dạng sinh học. Người trồng cà phê cũng
nhận thức rõ về vấn đề quản lý, bảo tồn, phát triển bền vững rừng
cà phê của quốc gia. Hơn 90% diện tích cà phê được bao quanh
bởi các công viên quốc gia và khu bảo tồn động vật hoang dã. Ủy
ban Cà phê Ấn Độ, Hội đồng Cà phê Ấn Độ, Quỹ Tín thác Cà phê
Ấn Độ chung tay kiểm soát và khuyến khích thực thi nông nghiệp
bền vững, tăng cường quảng bá cà phê trồng trong bóng râm với
mục tiêu nâng cao nhận thức về việc bảo tồn và phát huy các giá
trị của cây cà phê.
Biến đổi khí hậu đã và đang gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến
cuộc sống của con người trên mọi lĩnh vực. Hiện nay, các vùng
nguyên liệu cà phê trên thế giới, bao gồm cả Việt Nam đã áp dụng hệ
thống nông lâm kết hợp vì vai trò quan trọng của nó trong việc hỗ trợ
đa dạng sinh học và giảm thiểu các thảm họa do biến đổi khí hậu gây
ra. Nỗ lực phát triển ngành cà phê bền vững trên toàn cầu là một hình
thái nhân bản nhân văn, cộng lực tạo dựng quan niệm sống có trách
nhiệm, con người tương sinh thuận thảo và sống hài hòa với môi sinh
chứ không khai thác triệt để, đối kháng với thiên nhiên.
Canh tác nông lâm thuận thiên nhiên là một phần trong di sản khổng
lồ của nền văn minh Ấn Độ. Nông lâm Ấn Độ vốn có sự tác động
từ tôn giáo, triết học đến khoa học kỹ thuật… điều này tạo nên bản
sắc khác biệt không lẫn với các quốc gia nào khác. Trong tác phẩm
“Lịch Sử Văn Minh Ấn Độ”, nhà sử học Will Durant đã dẫn chứng
những nỗ lực thuần hóa cây trồng từ giai đoạn khởi sinh văn minh
lưu vực sông Ấn (2.800 – 1.800 TCN) đến văn hóa nông nghiệp toàn
diện trong thời kỳ hoàng kim Gupta (năm 319 – 467) đưa Ấn Độ phát
triển thành một trong những nền văn minh rực rỡ nhất của nhân loại.
Cho đến nay, thực vật và động vật vẫn luôn được người Ấn Độ tôn
thờ trong các nghi thức tín ngưỡng. Tác phẩm “Lịch Sử Văn Minh
Ấn Độ” cũng là một trong 100 cuốn sách quý thuộc “Tủ sách Nền
Tảng Đổi Đời” do Nhà sáng lập – Chủ tịch Tập đoàn Trung Nguyên
Legend Đặng Lê Nguyên Vũ tâm huyết, cẩn trọng tuyển chọn nhằm
khuyến khích việc học hỏi, tiếp thu và ứng dụng tinh hoa tri thức
nhân loại từ đó vươn lên xứng tầm với tiềm năng của trí tuệ dân tộc
Việt, tạo ra thịnh vượng và sự hùng mạnh cho quốc gia.